Văn Khấn phong tục Việt Nam, Bài khấn

Văn Khấn

Văn chiêu hồn - Văn tế thập loại chúng sinh

"Văn tế thập loại chúng sinh" đã tồn tại từ rất lâu trong văn hóa Việt Nam, là một phần quan trọng của di sản văn hóa cổ truyền. Để hiểu rõ hơn về nội dung và ý nghĩa của "Văn tế thập loại chúng sinh", các bạn hãy tham khảo những thông tin sau đây.

1. Giới thiệu và xuất xứ của văn tế thập loại chúng sinh

"Văn tế thập loại chúng sinh" là một tác phẩm văn học nổi tiếng của Đại thi hào dân tộc Việt Nam - Nguyễn Du. Tác phẩm này được viết bằng chữ Nôm và còn được biết đến dưới nhiều cái tên khác như "văn tế chiêu hồn" hay "văn chiêu hồn".

Nguyễn Du viết "Văn tế thập loại chúng sinh" trong những năm đầu của thế kỷ 19, tuy nhiên thời điểm cụ thể ra đời của tác phẩm vẫn chưa được xác định rõ. Theo một số nguồn tư liệu, Nguyễn Du viết tác phẩm này sau khi chứng kiến hậu quả của một đợt dịch bệnh khủng khiếp.

Mùa dịch đã cướp đi hàng triệu mạng người và khắp nơi trở thành cảnh tượng tang hoang. Các chùa chiền được lập đàn cầu siêu cho các linh hồn đã ra đi vì dịch bệnh.

Mặc dù không có sự đồng thuận hoàn toàn về thời gian sáng tác, một số nguồn ghi nhận rằng "Văn tế thập loại chúng sinh" được viết trước cả tác phẩm "Truyện Kiều" của Nguyễn Du.

Nhìn chung, "Văn tế thập loại chúng sinh" là một tác phẩm văn học vô cùng quý giá, thể hiện tinh thần nhân văn và lòng nhân ái sâu sắc của tác giả Nguyễn Du đối với nhân loại và văn hóa dân tộc.

van te thap loai chung sinh

2. Chủ đề và Bố cục của Văn tế thập loại chúng sinh

2.1 Chủ đề

Bài văn tế thập loại chúng sinh của Nguyễn Du tập trung vào một xã hội hồn ma đau khổ và thảm thương. Tuy nhiên, khác với xã hội trần thế, không có sự đối lập giữa giàu nghèo hay quyền lực, mà tất cả chúng sinh đều đối mặt với cảnh đời oan khuất, cô đơn và đau khổ. Tác phẩm thể hiện lòng trắc ẩn và tình nhân ái sâu sắc của tác giả đối với nhân loại.

2.2. Bố cục

  • Phần 1: Gồm 20 câu thơ đầu tiên miêu tả khung cảnh buổi chiều mùa thu tháng 7 với mưa dầm buồn bã, tạo nên bối cảnh u ám và đau lòng. Đây là cảnh tượng làm chạnh lòng Nguyễn Du và thúc đẩy ý định viết văn tế.
  • Phần 2: Gồm 116 câu thơ tiếp theo đề cập đến nguyên nhân khiến mười loại Cô Hồn phải chịu thiệt mạng. Tác giả chỉ đích danh những nguyên nhân này để thể hiện sự thấu hiểu và đồng cảm với số phận của những linh hồn đau khổ.
  • Phần 3: Gồm 20 câu thơ tiếp theo mô tả chi tiết về cuộc sống thê lương của những Cô Hồn, tăng thêm sự bi kịch và đau khổ của họ.
  • Phần cuối: Bao gồm 28 câu thơ cuối cùng, nơi tác giả cầu nguyện và kêu gọi sự giúp đỡ từ Phật, mong muốn những linh hồn được giải thoát và nhận lễ cúng siêu độ. Phần này là điểm nhấn về tinh thần nhân ái và lòng từ bi của tác giả.

Tóm lại, bố cục của Văn tế thập loại chúng sinh được xây dựng một cách cẩn thận để thể hiện sâu sắc về cảm xúc và tâm trạng của tác giả, cũng như để thể hiện sự đau xót và lòng từ bi đối với những linh hồn đau khổ.

van te thap loai chung sinh

3. Trích bài “Bài Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh” – Nguyễn Du

Dưới đây là một vài trích đoạn trong tác phẩm “Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh” – Nguyễn Du:

“Tiết tháng Bảy mưa dầm sùi sụt,

Toát hơi may lạnh buốt xương khô,

Não người thay buổi chiều thu,

Ngàn lau nhuốm bạc, lá ngô rụng vàng.

5. Đường bạch dương bóng chiều man mác,

Ngọn đường lê lác đác sương sa,

Lòng nào là chẳng thiết tha,

Cõi dương còn thế nữa là cõi âm.

Trong trường dạ tối tăm trời đất,

10. Có khôn thiêng phảng phất u minh,

Thương thay thập loại chúng sinh,

Hồn đơn phách chiếc lênh đênh quê người.

Hương khói đã không nơi nương tựa,

Hồn mồ côi lần lữa đêm đen,

15. Còn chi ai quí ai hèn,

Còn chi mà nói ai hiền ai ngu?

Tiết đầu thu lập đàn giải thoát,

Nước tĩnh bình rưới hạt dương chi,

Muôn nhờ đức Phật từ bi,

20. Giải oan, cứu khổ, hồn về tây phương.

Cũng có kẻ tính đường kiêu hãnh,

Chí những lăm cướp gánh non sông,

Nói chi những buổi tranh hùng,

Tưởng khi thế khuất vận cùng mà đau.

25. Bỗng phút đâu mưa sa ngói lở,

Khôn đem mình làm đứa sất phu,

Lớn sang giàu nặng oán thù,

Máu tươi lai láng, xương khô rã rời.

Đoàn vô tự lạc loài nheo nhóc,

30. Quỷ không đầu than khóc đêm mưa

Cho hay thành bại là cơ

Mà cô hồn biết bao giờ cho tan!

Cũng có kẻ màn lan trướng huệ,

Những cậy mình cung quế Hằng Nga,

35. Một phen thay đổi sơn hà,

Mảnh thân chiếc lá biết là về đâu?

Trên lầu cao dưới cầu nước chảy

Phận đã đành trâm gãy bình rơi,

Khi sao đông đúc vui cười,

40. Mà khi nhắm mắt không người nhặt xương.

Đau đớn nhẽ không hương không khói,

Luống ngẩn ngơ dòng suối rừng sim.

Thương thay chân yếu tay mềm Càng năm càng héo, một đêm một rầu.

45. Kìa những kẻ mũ cao áo rộng,

Ngọn bút son thác sống ở tay,

Kinh luân găm một túi đầy,

Đã đêm Quản Cát lại ngày Y Chu.

Thịnh mãn lắm oán thù càng lắm,

50. Trăm loài ma mồ nấm chung quanh,

Nghìn vàng khôn đổi được mình,

Lầu ca, viện hát, tan tành còn đâu?

Kẻ thân thích vắng sau vắng trước,

Biết lấy ai bát nước nén nhang?

55. Cô hồn thất thểu dọc ngang,

Nặng oan khôn nhẽ tìm đường hoá sinh.

Kìa những kẻ bài binh bố trận

Đem mình vào cướp ấn nguyên nhung.

Gió mưa sấm sét đùng đùng,

60. Dãi thây trăm họ nên công một người.

Khi thất thế tên rơi đạn lạc,

Bãi sa trường thịt nát máu rơi,

Bơ vơ góc bể chân trời,

Nắm xương vô chủ biết vùi nơi nao?

65. Trời thăm thẳm mưa gào gió thét,

Khí âm huyền mờ mịt trước sau,

Ngàn mây nội cỏ rầu rầu,

Nào đâu điếu tế, nào đâu chưng thường?

Cũng có kẻ tính đường trí phú,

70. Mình làm mình nhịn ngủ kém ăn,

Ruột rà không kẻ chí thân,

Dẫu làm nên để dành phần cho ai?

Khi nằm xuống không người nhắn nhủ,

Của phù du dẫu có như không,

75. Sống thời tiền chảy bạc ròng,

Thác không đem được một đồng nào đi.

Khóc ma mướn, thương gì hàng xóm,

Hòm gỗ đa bó đóm đưa đêm,

Ngẩn ngơ trong quảng đồng chiêm,

80. Nén hương giọt nước, biết tìm vào đâu?

Cũng có kẻ rắp cầu chữ quý

Dấn mình vào thành thị lân la,

Mấy thu lìa cửa lìa nhà,

Văn chương đã chắc đâu mà trí thân?

85. Dọc hàng quán phải tuần mưa nắng,

Vợ con nào nuôi nấng khem kiêng,

Vội vàng liệm sấp chôn nghiêng,

Anh em thiên hạ láng giềng người dưng.

Bóng phần tử xa chừng hương khúc,

90. Bãi tha ma kẻ dọc người ngang,

Cô hồn nhờ gửi tha phương,

Gió trăng hiu hắt, lửa hương lạnh lùng.

Cũng có kẻ vào sông ra bể,

Cánh buồm mây chạy xế gió đông.

95. Gặp cơn giông tố giữa dòng,

Đem thân vùi rấp vào lòng kình nghê.

Cũng có kẻ đi về buôn bán,

Đòn gánh tre chín dạn hai vai,

Gặp cơn mưa nắng giữa trời,

100. Hồn đường phách sá lạc loài nơi nao?

Cũng có kẻ mắc vào khoá lính,

Bỏ cửa nhà đi gánh việc quan,

Nước khe cơm ống gian nan,

Dãi dầu nghìn dặm lầm than một đời.

105. Buổi chiến trận mạng người như rác,

Phận đã đành đạn lạc tên rơi.

Lập loè ngọn lửa ma trơi,

Tiếng oan văng vẳng tối trời càng thương.

Cũng có kẻ nhỡ nhàng một kiếp,

110. Liều tuổi xanh buôn nguyệt bán hoa,

Ngẩn ngơ khi trở về già,

Đâu chồng con tá biết là cậy ai?

Sống đã chịu một đời phiền não

Thác lại nhờ hớp cháo lá đa,

115. Đau đớn thay phận đàn bà,

Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu?

Cũng có kẻ nằm cầu gối đất,

Dõi tháng ngày hành khất ngược xuôi,

Thương thay cũng một kiếp người,

120. Sống nhờ hàng xứ, chết vùi đường quan!

Cũng có kẻ mắc oan tù rạc

Gửi mình vào chiếu rách một manh.

Nắm xương chôn rấp góc thành,

Kiếp nào cởi được oan tình ấy đi?

125. Kìa những đứa tiểu nhi tấm bé,

Lỗi giờ sinh lìa mẹ lìa cha.

Lấy ai bồng bế vào ra,

U ơ tiếng khóc thiết tha nỗi lòng.

Kìa những kẻ chìm sông lạc suối,

130. Cũng có người sẩy cối sa cây,

Có người leo giếng đứt dây,

Người trôi nước lũ kẻ lây lửa thành.

Người thì mắc sơn tinh thuỷ quái

Người thì sa nanh sói ngà voi,

135. Có người hay đẻ không nuôi,

Có người sa sẩy, có người khốn thương.

Gặp phải lúc đi đường lỡ bước

Cầu Nại Hà kẻ trước người sau

Mỗi người một nghiệp khác nhau

140. Hồn xiêu phách tán biết đâu bây giờ?

Hoặc là ẩn ngang bờ dọc bụi,

Hoặc là nương ngọn suối chân mây,

Hoặc là bụi cỏ bóng cây,

Hoặc nơi quán nọ cầu này bơ vơ.

145. Hoặc là nương thần từ, Phật tự

Hoặc là nơi đầu chợ cuối sông

Hoặc là trong quãng đồng không,

Hoặc nơi gò đống, hoặc vùng lau tre.

Sống đã chịu nhiều bề thảm thiết,

150. Gan héo khô dạ rét căm căm,

Dãi dầu trong mấy mươi năm,

Thở than dưới đất, ăn nằm trên sương.

Nghe gà gáy tìm đường lánh ẩn,

Lặn mặt trời lẩn thẩn tìm ra,

155. Lôi thôi bồng trẻ dắt già,

Có khôn thiêng nhẽ lại mà nghe kinh.

Nhờ phép Phật siêu sinh tịnh độ,

Phóng hào quang cứu khổ độ u,

Rắp hoà tứ hải quần chu,

160. Não phiền rũ sạch, oán thù rửa không.

Nhờ đức Phật thần thông quảng đại,

Chuyển pháp luân tam giới thập phương,

Nhơn nhơn Tiêu Diện đại vương,

Linh kỳ một lá dẫn đường chúng sinh.

165. Nhờ phép Phật uy linh dũng mãnh,

Trong giấc mê khua tỉnh chiêm bao,

Mười loài là những loài nào?

Gái trai già trẻ đều vào nghe kinh.

Kiếp phù sinh như hình bào ảnh,

170. Có chữ rằng: “Vạn cảnh giai không”

Ai ơi lấy Phật làm lòng,

Tự nhiên siêu thoát khỏi trong luân hồi.

Đàn chẩn tế vâng lời Phật giáo,

Của có chi bát cháo nén nhang,

175. Gọi là manh áo thoi vàng,

Giúp cho làm của ăn đường thăng thiên.

Ai đến đây dưới trên ngồi lại,

Của làm duyên chớ ngại bao nhiêu.

Phép thiêng biến ít thành nhiều,

180. Trên nhờ Tôn Giả chia đều chúng sinh.

Phật hữu tình từ bi phổ độ

Chớ ngại rằng có có không không.

Nam mô Phật, nam mô Pháp, nam mô Tăng".
van te thap loai chung sinh

Tạm kết

Trong Văn tế thập loại chúng sinh, Nguyễn Du đã truyền đạt một thông điệp nhân văn sâu sắc về sự đau khổ và lòng từ bi đối với những linh hồn bất hạnh. Bằng cách mô tả chi tiết về cảnh cảm và cảnh đời của những chúng sinh bị thương, tác giả đã gợi lên trong độc giả những suy tư sâu xa về ý nghĩa của sự sống và sự đau khổ của nhân loại. Dù được viết trong thời kỳ đầy biến động của lịch sử, tác phẩm vẫn giữ được giá trị về tinh thần và nhân văn, khắc họa một cách chân thực bức tranh về sự thương tâm và đau khổ trong xã hội. Đồng thời, qua bố cục chặt chẽ và ý nghĩa sâu sắc của từng phần, Nguyễn Du đã để lại dấu ấn không thể phai nhạt trong văn học cổ điển Việt Nam.
Xeem thêm: 

  • Văn chiêu hồn - Văn tế thập loại chúng sinh
  • By Admin
  • 02/04/2024
  • 68 views

Bài viết khác

Giỏ hàng

Bạn hãy đặt hàng sớm để được món đồ yêu thích

Facebook call zalo call